Saturday, March 26, 2016

CHÙM NHO THỊNH NỘ

 Lòi mở đầu 

  Ngòi bút của văn hào John E. Steinbeck miêu tả sâu sắc , không bỏ qua một chi tiết nhỏ nào, những chi tiết có thể ít người để ý. 
Khi ông mô tả cây bắp trong cơn đại hạn nước Mỹ vào năm 1939 (Chương I):
"...những chiếc lá non xanh của bắp không còn đứng thẳng được nữa; thoạt đầu chúng hơi cong lại, và rồi, phần giữa sóng lá yếu dần, từng chiếc lá khuỵu xuống. Giờ đây các đường viền cháy xậm của lá bắp lại lan rộng dần vào phần sóng lá ..."
hoặc miêu tả sự tấn công bắt đầu của lớp bụi khổng lồ:
"Cho đến lúc chúng tạo thành một lớp dày che kín mặt đất. Chúng đọng trên bắp, trên cọc hàng rào, đọng trên bao lớp hàng kẻm gai, dồn lớp trên mái nhà trên bao lớp cỏ dại cùng cây cối.."
Khi ông miêu tả sự lợi hại của những hạt giống cỏ ,nó có những móc gai để bám dễ dàng vào các vật tiếp chuyển hòng lan truyền giống của chúng ông viết
"Tất cả đều thụ động đợi chờ nhưng lại trang bị những 'vũ khí' hết sức lợi hại,bền lặng, nhưng nó ẩn chứa một sức mạnh ban sơ cho vận động ..."
Diễn tả tâm lý con người , ông miêu tả tình trạng chẳng đặng đừng không thể chối từ của người tài xế và tài khôn khéo của nguòi xin quá giang trong chương 2:
"Giờ nếu gã cho phép hắn vào, tự động gã là một người tốt, lại càng không phải kẻ chuyên bị những ông chủ giàu có 'chết tiệt' kể trên 'xài xể lung tung' được. Gã tài tự biết mình đang lâm vào thế kẹt, nhưng không thể tìm cách nào khá hơn" ..
John Steinbeck sống và lớn lên tại vùng nông nghiệp trù phú Salinas California, hình ảnh người nông dân còn đậm nét trong tâm trí ông, đó là lý do tại sao tác phẩm Những Chùm Nho Phẩn Nộ" nổi tiếng vào thập niên 1940s, cùng với những thành công của các tác phẩm khác giúp ông thắng giải Nobel văn chương vào năm 1962.

***
  Sinh tại Salinas, California, vào năm 1902, John Steinbeck lớn lên từ một thung lũng màu mỡ cách xa bờ Thái bình Dương khoảng 25 dặm (40km)mà cả hai đều là những đề tài gợi hứng cho những tác phẩm của ông. Ông vào học tại đại học Stanford vào năm 1919,với lớp văn chương và viết nhưng sau đó vào năm 1925 ông rời trường nhưng không tốt nghiệp. Năm năm sau ông tự kiếm sống bằng lao động và nhà báo tại Nửu Ước cùng làm nhân viên bảo hộ cho công ty Lake Tahoe đó là thời gian ông viết tiểu thuyết đầu tiên là Cup of Gold (1929). Cưới vợ xong ông về Pacific Grove, ông xuất bản 2 cuốn The Pastures of Heaven (1932) và To a God Unknown (1933), và viết nhiều truyện ngắn cho tập The Long Valley (1938). Thành công lớn nhất về tài chánh và được quần chúng biết nhiều nhờ vào cuốn Tortilla Flat (1935)về những nông dân gốc Tây ban Nha tại vùng Monterey . Ông không ngưng viết và thay đổi liên tục đè mục. Ba cuốn tiểu thuyết lớn mô tả đời sống người lao động tại California phải kể đến là

-In Dubious Battle (1936)

-Of Mice and Men (1937)

và cuốn The Grapes of Wrath (1939) là cuốn nổi tiếng nhất cho nhà văn . 
                                            Salinas Valley

    Đầu thập niên 1940, Steinbeck hợp tác với phim trường qua The Forgotten Village (1941) và nhiều đề tài liên hệ với sinh viên hải dương học trong Sea of Cortez (1941). Ông phục vụ chiến tranh , trong thời gian này ông viết Bombs Away (1942) và cuốn tiểu thuyết gây xôn xao dư luận là The Moon is Down (1942). Cannery Row (1945), The Wayward Bus (1947), The Pearl (1947), A Russian Journal (1948), Kịch thực nghiệm Burning Bright (1950) và The Log from the Sea of Cortez (1951)mà trước đó một vở nổi trội phi thuờng là East of Eden (1952)một thiên sử về Thung Lũng Salinas và lịch sử gia đình . Những thập niên cuối ông ở Nữu Ước và Sag Harbor với người vợ thứ ba , ông du lịch nhiều .

Những cuốn cuối :

-Sweet Thursday -1954

-The Short Reign of Pippin IV: A Fabrication -1957

-Once There Was a War -1958

-The Winter of Our Discontent -1961

-Travels with Charley in Search of America, 1962

-America and Americans 1966

và những cuốn ra sau khi ông qua đời gồm

-Journal of a Novel : the East of Eden Letters 1969

-Viva Zapata! 1975

-the Acts of King Arthur and His Noble Knights 1976

-Working Days: The Journals of the Grapes of Wrath 1989




  A 1962 photo shows Nobel Prize winners (from left): Maurice Wilkins (medicine), Max F. Perutz (chemistry), Francis Crick (medicine), John Steinbeck (literature), James Watson (medicine) and John C. Kendrew (chemistry). Not pictured are winners Linus Pauling (peace) and Lev Landau (physics).

   Ông đoạt giải Nobel văn học vào năm 1962. Hai cuốn tiểu thuyết gây ảnh huởng mạnh cho giải Nobel 1962 của ông là Mice and Men và The Grapes of Wrath. Ông qua phục vụ tại cuộc chiến VN vào năm 1966.

             John Steinbeck trong Cuộc Chiến VN 1966
  Ông qua đời do bệnh tim vào ngày 20 tháng 12 năm 1968 tại nhà riêng ở thành phố Nữu Ước  .



 

=========================================================== 


        John Ernest Steinbeck (1902-1968)
 Sơ lược về tác giả
California thời khủng hoảng kinh tế Mỹ.
ĐẠI HẠN VÀ TRẬN DUST BOWL NƯỚC MỸ-- QUA NGÒI BÚT CỦA JOHN ERNEST STEIBECK TRONG TÁC PHẨM  NHỮNG CHÙM NHO THỊNH NỘ 
                           (The Grapes of Wrath)
                              
CHAPTER 1  Dust Bowl và Nước Mỹ 

        Những cơn  mưa cuối cùng rơi xuống  hai vùng đất đỏ và xám của tiểu bang Oklahoma quá nhẹ chẳng gây được tì vết nào lên mặt đất . Những chiếc cày tiếp tục cày qua lại trên những đường hằn  trước đó. Bắp nhú nhanh sau mấy cơn mưa , che mất những đám cỏ dại và những hàng cỏ dọc theo con đường. Rồi cả hai vùng đất xám , đỏ thẳm kia đều biến màu, chỉ còn thấy một màu xanh lục của bắp non . Khoảng cuối tháng Năm bầu trời tự nhiên nhợt nhạt hẳn vì những đụn mây dày đặc trong mùa xuân tiêu tan đâu mất . Ánh mặt trời đổ ánh nắng như thiêu đốt lên những cánh đồng bắp ngày này qua ngày khác cho đến khi người ta thấy những viền màu nâu bắt đầu lan dần dọc theo các mép lá . Những đám mây xuất hiện, lại biến mất và không còn trở lại nữa . Những đám cỏ dại đổi màu xanh đậm hơn để tự bảo vệ và không còn lan rộng ra nỗi nữa . Mặt đất khô róm lại thành những lớp khô dòn . Bầu trời càng nhợt nhạt thì mặt đất lại càng nhợt nhạt theo, vùng đất đỏ nay trở thành .màu hồng , vùng đất xám nay trở thành màu bạc phếch.

    Đất khô lắng đầy trong các mương nhỏ. Từng loạt nhỏ chuột 
 đồng và bầy kiến bắt đầu di cư . Và khi ánh nắng càng trở nên gay gắt ngày qua ngày, giờ những cái lá non xanh của bắp không còn đứng thẳng được nữa; thoạt đầu chúng hơi cong lại, và rồi, phần giữa sóng lá yếu dần, từng chiếc lá khuỵu xuống . Giờ đây các đường viền cháy xậm của lá bắp lại lan rộng dần vào phần sóng lá .  Mấy đám cỏ dại tả tơi cụp xuống tận rễ . Không khí thật loãng và bầu trời càng trở nên nhợt nhạt ; mỗi một ngày mặt đất lại càng nhợt nhạt.

    Vài toán người di chuyển trên đường. Bánh xe nghiến trên mặt đường, móng ngựa gõ cồm cộp trên đất, mặt đất vỡ vụn thế là bụi tạo thành.  Mọi thứ di động đều tung thêm bụi vào bầu trời: Một gã đi bộ làm tung đám bụi mỏng lên ngang thắt lưng, một cổ xe ngựa cũng đủ bắn bụi cao ngang hàng rào, một chiếc xe hơi chạy ngang cuồn cuồn dấy lên một lớp mây bụi dày đằng sau nó. Bụi lại tiếp tục dấy lên vậy mãi không thôi.

     Nửa tháng Sáu qua rồi. Những đám mây lớn dần xuất hiện từ bầu trời Texas và vùng Vịnh, những đám mây lớn cao mang đầy mưa . Đàn ông làm việc trên đồng, họ ngữa cổ trông lên những đám mây kia, mũi ngửi ngửi, xong đưa ngón tay thấm nước lên trời đoán chừng ngọn gió. Bầy ngựa lại chộn rộn khi mây tăng lên. Đám mưa rơi một ít làm bắn tung vài giọt nước xong lại vội vả bay đi vùng khác. Đằng sau chúng giờ đây lại một bầu trời nhợt nhạt và mặt trời tiếp tục gay gắt. Trong đám bụi đất còn vài dấu vết mấy hạt mưa hiếm hoi vừa rơi, trên đám bắp cũng có dấu vết vài giọt nước vừa rơi, chỉ ngần ấy thôi . Có cơn gió nhẹ theo sau đưa đám mây đó tiến về huớng bắc, ngọn gió nhẹ qua làm rung rinh đám bắp đang khô héo. Một ngày nữa lại qua, gió tăng thêm mạnh hơn, đều đặn , không thay đổi. Nhiều đám bụi trên mặt đường cuốn tung lên phủ xuống mấy đám cỏ dại cạnh mấy cánh đồng. Bầu trời dần dà đen thẩm lại do bụi. Gió rà qua mặt đất tung bụi lên và mang chúng đi xa. Gió càng lúc càng mạnh. Mưa làm vỡ lớp đất khô trên mặt, gió tung bụi lên khỏi những cánh đồng, xong đưa những đám mây bụi xám xịt kia vào bầu trời trông y những đám khói đen khổng lồ từ từ lan rộng. Bao chiếc lá bắp khô đập phành phạch theo gió, tạo thành thứ âm thanh khô khốc vội vả. Thứ bụi chứa loại đất tốt kia không rơi trở lại mặt đất, giờ đang lẩn vào trong không gian tối mịt kia.

   Gió càng lúc càng mạnh. Gió xói qua dưới từng phiến đá kéo tốc ra hết mọi thứ- cỏ lá khô, ngay cả cục đất nhỏ, tất cả cuốn theo huớng đi của gió khi  nó lướt qua cánh đồng. Không khí và bầu trời đen kịt chỉ để mặt trời chiếu những lửa đỏ ối xuyên qua. Đó là cả một sự nhức nhối trong bầu trời. Ban đêm, ngọn gió tàn bạo kia lại càng lướt nhanh qua cánh đồng, xới tung lớp rễ con của bắp. Những chiếc lá bắp yếu ớt cố đứng vững trước gió cho đến một lúc lớp rễ thực sự bị trốc ra và tất cả cùng ngã rạp theo huớng đi của gió.

   Bình minh đến, nhưng không đồng nghĩa với ngày. Một mặt trời đỏ trong bầu trời màu xám xuất hiện. Đó là một vòng tròn đỏ ẩn hiện cho rất ít ánh sáng tạo thành một vùng sáng lờ mờ. Ngày càng lên cao, vùng sáng lờ mờ này lại chuyển qua màu tối đậm hơn. Gió tiếp tục gào thét cày qua những đám bắp ngã rạp rên rỉ.

   Đàn ông, đàn bà chen chúc núp trong nhà. Mỗi khi ra khỏi nhà, họ buộc chặt khăn tay vào mũi hay cặp che mắt tròn bảo vệ đôi mắt.

    Đêm về, một bầu trời đen kịt. Ánh sao không thể nào xuyên   xuống mặt đất. Ngoài vườn không thể nào thấy ánh sáng trong nhà hắt qua cửa sổ. Bụi đã trộn đậm  đều với không khí để tạo ra một hỗn hợp.  Mọi nhà cửa đều đóng kín bưng. Mọi khe hở cửa sổ và cửa ra vào  đều được chèn bằng vải. Thế nhưng bụi cũng len vào  được. Không ai nhìn ra nỗi thứ bụi mịn này trong không khí.  Chúng như lớp phấn hoa bám vào ghế, bàn, dĩa ăn cơm. Người ta phủi bụi bám trên vai. Bụi đọng lại một đường dài ngay ngạch cửa.

  Khoảng nửa đêm, gió đã đi qua trả lại sự vắng lặng cho vùng đất . Thứ không khí chứa đầy bụi giờ đây lại cản trở âm thanh còn nhiều hơn sương mù gấp bội. Người ta nằm gắng trên giừong cố lắng nghe tiếng gió ngưng thổi. Họ tiếp tục nằm yên lặng cố lắng tai thật sâu vào khoảng không gian lặng yên đó. Có tiếng gà gáy , âm thanh nghe cũng bị nghèn nghẹn qua làn không khí đó. Người ta không tài nào nằm yên trên giừong mãi, họ đang cần một buổi sáng. Họ biết phải chờ rất lâu không khí mới hết bụi. Buổi sáng,  màn bụi treo dày đặc trông y một lớp sương mù. Mặt trời chín đỏ như màu máu. Suốt ngày bụi sẽ liên tục từ trên trời tiếp tục lắng xuống. Rồi ngày kế tiếp cũng y vậy. Cho đến lúc bụi tạo thành một lớp dày che kín mặt đất. Chúng đọng trên bắp, trên cọc hàng rào, trên bao lớp hàng kẻm gai, ứ từng lớp trên mái nhà, trên bao lớp cỏ dại cùng cây cối...


   Người ta tiếp tục ra khỏi nhà. Khi ngửi được mùi không khí nóng bỏng,  khó chịu, họ lại vội che mũi. Trẻ con cũng lóp ngóp bò ra, nhưng chúng không còn nô đùa như trước mỗi dịp có mưa. Mấy gã đàn ông đứng tần ngần cạnh hàng rào. Họ lặng nhìn đồng bắp bị trận hạn thiêu rụi , hủy hoại chỉ còn lác đác còn vài ngọn lá xanh nào đó ngắc ngoải nhô ra nơi nào ít bụi. Họ đứng yên rất lâu chẳng hề nhúc nhích. Giờ đây cánh  đàn bà lại chui ra khỏi nhà, đứng cạnh đàn ông -họ đoán xem có nghỉ làm không ? Họ âm thầm xem nét mặt đàn ông để đoàn biết ý nghĩ trong họ, có thể bắp đã tiêu tan hết và còn lại một ít gì đó . Đám trẻ đứng gần ,dùng chân vẽ vu vơ trên đất. Chúng đoán chừng xem đàn bà và đàn ông sẽ nghỉ làm hay không ? Bọn trẻ lại nhìn trộm nét mặt đàn ông và đàn bà , lại dùng chân cẩn thận vẽ thêm những đường thẳng trên đất. Mấy con ngựa lại máng rúc đầu vào uống nước làm sạch đi những lớp bụi đọng trên thành máng. Giờ đàn bà biết rằng đã bình yên và sẽ không nghỉ làm. 
Rồi họ hỏi chồng 
-Chúng mình sẽ làm gì đây?
 Đàn ông trả lời
- Anh không biết nữa. Nhưng cũng ổn thôi. 

Đàn bà biết sẽ ổn thôi, rồi những đứa trẻ đang chăm chú nhìn họ cũng biết sẽ ổn cả thôi. Trong thâm tâm, đàn bà và đám trẻ tự biết rằng họ sẽ không bao giờ có rủi ro nào quá lớn mỗi khi chồng và cha chúng còn an toàn. Đàn bà vào nhà tiếp tục công việc. Lủ trẻ sau khi cẩn thận dòm chừng rồi lại tiếp tục nô đùa. Càng về cuối ngày thì mặt trời càng ít đỏ hơn nhưng vẫn thổi những tia lửa gay gắt lên mặt đất dày bụi. Mấy gã đàn ông kia tiếp tục ngồi trước lối vào nhà. Hai tay họ lại tiếp tục vân vê cái que và những viên đá nhỏ. Họ mãi ngồi yên như thế- suy nghĩ -vẽ vời gì đó trong đầu.

Hết Chương I




John Steinbeck 
translation by Đinh Hoa Lư
  4/5/2015  




***                         

Bộ phim kịch nghệ The Grapes of Wrath do đạo diển John Ford thực hiện vào năm 1940 dựa trên cuốn tiểu thuyết Những Chùm Nho Phẩn Nộ của nhà văn Mỹ John Steinbeck đã thắng giải Pulitzer Prize vào năm 1939. Tất cả nhân vật trong phim đều được dựng lại từ nhà viết kịch bản Nunnally Johnson và giám đốc sản xuất Darryl F. Zanuck

Phim nói về câu chuyện của gia đình Joad phải di cư rời Oklahoma vì mất hết sản nghiệp đất đai trong trận Đại Khủng Hoảng Kinh Tế vào thập niên 1930 để đến lập nghiệp tại California. Tại đây họ trở thành người di dân lao động. Cuốn phim miêu tả một chuỗi đấu tranh suốt chặng hành trình dài để tới vùng đất mới nơi đó mới hi vọng có những cơ hội công việc cho mọi thành viên trong gia đình .
Năm 1989, cuốn phim này được nằm trong danh sách 25 bộ phim được Ủy Ban Văn Khố Quốc Hội Hoa kỳ bình chọn là những cuốn phim tiêu biểu "VĂN HÓA, LỊCH SỬ CÙNG THẨM MỸ ' của Hoa Kỳ.

Đinh Hoa Lư dịch 

last edition  2/2/2021 

No comments:

Post a Comment