TÂM SỰ DI DÂN VÀ CUỘC VIỄN HÀNH TÂY TIẾN
Đoàn xe của người dân
phiêu bạt từ bên mép đường bò lên mặt con đường xa lộ lớn xuyên bang tiếp tục
cuộc di dân hướng về miền Tây. Ban ngày họ hối hả vội vàng chẳng khác gì đàn
côn trùng bay về hướng đó. Khi bóng tối
bao trùm họ tụm lại với nhau cũng chẳng khác gì đàn côn trùng tập trung về ổ
hay đi tìm nguồn nước. Do họ quá cô đơn và rối loạn. Đám dân này họ phải ra
đi cùng với nỗi buồn rầu, âu lo cùng thua cuộc. Họ ra đi cũng từ sức hấp dẫn của bao huyền thoại huy hoàng, nơi họ sắp tới. Từ đó, họ vội truyền miệng với nhau, sẻ chia nhau những gì trong đời sống,
cho nhau từng miếng ăn để hi vọng tới cho được một miền đất mới xa xăm.
Một gia đình vừa dựng lều
tạm nghỉ gần một con suối lại có ngay một gia đình tới cắm trại gần đó ngõ hầu
hợp tác, rồi sẽ có thêm một gia đình thứ ba nữa do hai gia đình kia đã tiên
phong dựng trước nơi này do họ biết nơi dựng lều này rất tốt. Cho đến khi mặt
trời bắt đầu xế bóng, nơi này đã có tới hai chục gia đình cùng xe cộ tập trung
lại rồi.
Chuyện lạ lùng sẽ hiện
ra vào chiều đó: hai mươi gia đình là một nhà, tất cả con trẻ sẽ trở thành con
cái một nhà. Sự mất mát nơi ăn chốn ở nay là sự mất mát chung nhau, và cái giấc
mơ “hoàng kim” của một miền Tây trước mắt đang trở thành một giấc mơ chung. Nếu
một em bé trong đoàn bị bệnh sẽ gieo nỗi tuyệt vọng chung cho toàn thể con tim
của cả hai chục gia đình, cả trăm con người. Nếu một em bé sơ sinh nào đó chào
đời dưới mái lều hôm đó cả trăm con người đó
cùng lúc im lặng, nín thở lo âu trọn đêm và sẽ cùng bùng phát chung nhau
một nỗi vui mừng hớn hở lúc trời vừa sáng. Gia đình qua một đêm chìm trong lo
âu sợ hãi đó sẽ tìm lại những đền bù từ cháu bé mới ra đời kia. Tối đến cùng
chung nhau ngồi bên đống lửa, rồi hai mươi gia đình là một. Họ đã kết đoàn
thành một khối qua từng buổi chiều và qua từng đêm như thế. Cái đàn ghi ta bó kỹ
trong tấm mền nay được lấy ra; để được đàn được hát, những bài hát chung mà mọi
người từng hát qua nhiều đêm. Đàn ông hát lời, còn đàn bà thì ngâm nga ậm ừ
theo điệu nhạc.
Mỗi một đêm về người ta
tạo thêm một thế giới khác với đồ đạc, bạn, thù đủ chuyện; một thế giới tạo lập
thêm từ những đứa khoác lác, những tên hèn nhát, hay mấy người kẻ im lìm khiêm
tốn, cùng mấy người hảo tâm tốt bụng. Mối liên hệ từng đêm như vậy lại tạo thêm
một thế giới lạ lùng cho đến khi sáng dậy cái thế giới đó lại bị lại tan hoang
đi chẳng khác gì đám xiệc.
Lúc đầu cái thế giới của
mọi gia đình đó ai ai ban đầu rụt rè, chậm chạp trong xây và dẹp lán trại,
dần dà họ quen dần đi và công việc này trở thành chuyên nghiệp. Họ tạo nên kẻ cầm
đầu và nảy sinh ra và luật lệ, rồi lại sinh thêm quy tắc. Cái thế giới đó càng
di chuyển về hướng tây càng tinh vi cùng hoàn thiện hơn do người xây ra nó càng
lúc càng kinh qua trong quá trình kiến tạo từng ngày.
Mọi thứ quyền đều được
mọi nhà công nhận- quyền tư riêng trong lều; quyền giữ những gì đen tối của quá khứ họ trong lòng; quyền được
nói và quyền được nghe; quyền từ chối hay chấp nhận giúp đỡ, cũng như quyền ngỏ
ý hay từ chối giúp đỡ; quyền tán tỉnh của con trai hay quyền được tán của con
gái; quyền được ăn lúc đói hay quyền của
thai phụ cũng như kẻ ốm đau được ưu tiên vượt lên mọi quyền khác. Mọi gia đình
này tuy không ai nói cho nhưng đều học được rằng, có nhiều thứ quyền quái dị phải
bị dẹp bỏ: đó là quyền ồn ào khi toàn các lều đã ngủ, quyền dụ dỗ người ta để
hãm hiếp, quyền ngoại tình hay ăn trộm cùng sát nhân. Tất cả thứ quyền quái dị
đó phải bị nghiền nát do cái thế giới nhỏ bé đó không thể nào tồn tại qua một
đêm thôi giá như cho các quyền như thế vẫn hiện hữu
Rồi khi những thế giới
như vậy dịch chuyển về hướng tây, dầu không ai nói với những gia đình đó, những điều lệ đó sẽ hóa thành luật pháp. Sẽ trái Pháp luật nếu ngu dại bén mãng gần các trại đó; cũng trái
pháp luật nếu lỡ dại bén mãng vào nước uống dù bất cứ với lý do gì; cũng trái
pháp luật nếu ta ăn đồ ăn ngon bổ gần kẻ đói khát trừ phi người ta xin bạn.
Pháp luật đó còn đi kèm
với trừng phạt—và chỉ có hai loại trừng phạt—một loại trừng phạt nhanh và một
loại trừng phạt bằng đoạn đường phải chiến đấu gian khổ đến chết người hay có
thể hiểu đó là lưu đày; mà lưu đày
là sự trừng phạt ghê gớm nhất. Lúc này, nếu ai đó đã phạm luật thì xem như tên
tuổi và khuôn mặt của họ sẽ theo họ suốt đời. Kẻ này sẽ không còn một chỗ dung
thân trong bất cứ nơi nào, dù họ có xây dựng được gì bất cứ nơi đâu.
Trong thế giới này, khi
người ta quan niệm hạnh kiểm xã hội là những gì cố định và cứng nhắc, đó là lúc
họ bắt con người phải nói “Chào buổi sáng” lúc cần thiết để khi ở lại gã ta sẽ
có được đàn bà sẵn lòng với gã rồi nếu làm cha cùng bảo vệ những đứa con của
nàng. Nhưng người đàn ông không thể mỗi đêm mỗi bà, nếu làm thế tất nhiên sẽ
phá hoại thế giới này.
Nhiều gia đình di cư về
hướng tây, kỹ thuật kiến dựng thế giới này tiến bộ từng ngày để họ được an toàn
trong thế giới của họ; thứ hình thức này phải cố định cho từng gia đình hành xử
luật lệ từ đó biết được họ sẽ sống yên nhờ vào luật lệ này.
Từng bước tiến bộ hơn
thêm khi họ có chính phủ cho thế giới đó, có lãnh đạo gồm những lão niên. Người
thông minh khám phá ra rằng từng trại đang cần thứ thông minh của gã; một đứa
ngu không bao giờ thay đổi được gì trong thế giới này do từ cái ngu của hắn. Những
đêm dài như thế sẽ phát triển thêm một dạng bảo hiểm. Người có thức ăn sẽ nuôi
một người đói, làm như thế gã sẽ bảo đảm chống lạ sự đói khát. Có hài nhi nào
qua đời sẽ có một xâu đồng tiền bạc đặt tại cánh cửa, do trẻ sơ sinh đáng được
chôn cất tử tế, lý do cuộc đời em bé chưa có mảy may gì cả. Người già thì có thể
chôn cất ở nơi dành cho kẻ bần cùng, xa lạ chứ không bao giờ dành cho trẻ sơ
sinh được.
Vật chất kiến tạo nên
thế giới đó có nước và bờ sông, có dòng suối cả, có con khe con thậm chí có cả
vòi nước không có người canh giữ. Còn có những khoảnh đất bằng phẳng cần để dựng
lều, một ít củi để làm nên bếp lửa. Có một nơi đổ rác không xa quá, nơi đó lại
cần có một ít dụng cụ--vài mặt lò cùng lá chắn lửa, vài cái lon vừa để nấu cũng
như dùng để ăn. Cái thế giới đó xây xong trong buổi chiều. Khi người ta từ xa lộ
đổ lại, lều trại dựng lên từ con tim và khối óc.
Sáng đến lều trại đều hạ
xuống, các tấm bạt dày đều cuốn lại, cọc lều cột chặt từng bó cột theo thành
xe, giường ngủ đặt lại trong xe, nồi song
đặt lại đúng nơi. Những gia đình đó tiếp tục đi về hướng tây. Kỹ thuật xây dựng
vừa chiều hôm trước, nay tiếp tục tháo ra khi ánh bình minh vừa hé; tất cả phải
chính xác không xê dịch, để cho các mái lều cuốn lại vào đúng một nơi, song chảo
đếm xong bỏ vào thùng. Rồi khi đám xe bò về hướng tây, mỗi thành viên của gia
đình càng lớn thêm trong vai vế và nhiệm vụ thích hợp của mình; để mỗi thành viên, dù già hoặc trẻ, có được một
chỗ trong xe; rồi những buổi chiều nóng bức mệt mỏi khi đoàn xe vào được vị trí
dựng trại rồi ai nấy đều biết bổn phận mà làm chẳng cần ai chỉ bảo. Trẻ con đi
lượm củi, xách nước; đàn ông dựng lều và đặt giường; đàn bà lo nấu món tối và
chăm coi khi gia đình đang ăn. Tất cả đều làm việc mình chẳng ai chỉ huy.
Những gia đình, có nghĩa
là từng đơn vị có một thứ ranh giới của một mái nhà vào ban đêm, một nông trại
vào ban ngày, sẽ thay đổi ranh giới kia. Dưới ánh nắng nóng bức kéo dài, họ phải
im lặng chịu đựng trong xe khi di chuyển chậm chạp về hướng tây; rồi đêm về họ
sẽ kết hợp với bất cứ nhóm nào họ thấy.
Điều đó đã thay đổi đời
sống xã hội của họ---thay đổi toàn bộ thứ vũ trụ trong đó chỉ có đàn ông có thể
thay đổi. Họ không còn là nông dân mà là di dân. Từ đó tư tưởng, kế hoạch, những
cái nhìn chằm chặp trong câm nín từng thấy trong cánh đồng nay đã vượt ra ngoài
xa lộ những khoảng xa diệu vợi để đi về miền Tây. Con người đó trí óc từng bị
ràng buộc với chuyện của từng mẫu đất nay phải sống với từng dặm đường bê tông
chật hẹp. Cùng từ đó những ý nghĩ cùng lo toan không còn là chuyện mưa, gió, bụi
hay được mất của thu hoạch nữa. Mắt họ giờ chú ý vào bánh xe hơi, tai lắng nghe
thật kỹ tiếng động của máy xe, trí óc phải tính toán với chuyện dầu, xăng, lớp
lốp ngăn giữa không khí trong bánh xe và mặt đường ra sao?
Rồi tấm bi kịch từ hộp
số xe ập đến. Thức ăn trên lửa cả buổi chiều không có nước. Phải cần có sức để
tiếp tục cuộc đi, rất cần tinh thần để tiếp nối cuộc hành trình. Ý muốn về hướng
tây đang thôi thúc họ vượt bao nỗi sợ nắng hạn thiêu mình hay lũ quét dọc đường,
tất cả đều không thể níu chân họ đang cố sức lê lết về hướng tây.
Từng lần cắm trại đều y
thế--rồi cứ một lần như thế cuộc hành trình sẽ dần thu ngắn lại.
Có nhiều gia đình đã vượt
qua hoảng loạn dọc đường, lái xe đêm và ngày, họ dừng và ngủ trong xe, cùng nhắm
về hướng Tây, từng khoảnh khắc như muốn bay cho mau trên đường. Lòng ước ao và
ham muốn vĩ đại đó đã hằn sâu lên nhiều khuôn mặt dẫn đưa họ lái về hướng Tây,
ép cho được cụm máy đang kêu than rệu rã trên đường làm theo ý họ.
Rồi mặt trời lặn, những
gia đình đó lại tiếp tục có một đời sống mới về đêm—đó là thời gian tìm chỗ dừng
chân tạm nghỉ.
Vài mái lều đã dựng trước.
Thấy một số lều dựng lên, chiếc xe vội tạt
qua mé lộ. Người ta ân cần lịch sự tiếp đón nhau. Người đàn ông, chủ gia đình
ló đầu ra cửa xe:
-
Chúng tôi có thể dừng tạm nghỉ ở đây
chăng ông bạn?
-
Sao không? Chắc chắn là được thôi, rất
hân hạnh. Các bạn từ Tiểu Bang nào vậy?
-
Từ Arkansas đi một mạch tới đây đó bạn
à.
-
Đằng kia kìa, cái lều thứ tư đó, họ từ
Arkansas đó bạn.
-
Thật vậy sao?
Rồi
một câu hỏi cần thiết khác:
-Còn
nước có không?
-Ồ,
tuy uống không ngon lắm nhưng khá nhiều đó bạn.
-Tốt
quá, cám ơn ông bạn nhé.
-
Không dám, đừng nói chuyện cám ơn làm chi.
Người
ta phải ân cần tử tế với nhau như thế. Chiếc xe chồm trên mặt đất hướng về phía
cái lều cuối, dừng lại. Một số người mệt mỏi trèo ra khỏi xe, những tấm thân cứng
đơ đau nhừ. Rồi thêm một tấm lều mới căng lên; mấy đứa trẻ vội tìm nước, mấy đứa
anh thì lo vơ củi. Ngọn lửa nhóm lên, món ăn tối được bỏ vào nước nấu hay
chiên. Vài người tới trước mon men lại làm quen, họ hỏi nhau từ tiểu bang nào?
Vài người bạn hay bà con nhận ra nhau.
-Oklahoma
hả? Quận nào?
-Cherokee.
-Sao,
tôi có bà con ở đó. Bạn biết gia đình Allens không? Gia đình Allens ở Cherokee.
Bạn biết gia đình Willises không?
-Sao
không? Biết chớ.
Cứ
thế một đơn vị mới hình thành. Hoàng hôn buông xuống, nhưng gia đình mới tới
kia đã dựng xong lều trước khi màn đêm thực sự bao trùm. Có một ý nghĩa mới hơn
đang đến với mọi gia đình lúc này đó là họ biết rằng họ cùng đều là NGƯỜI LƯƠNG
HẢO.
Cả đời ta biết rõ gia
đình Allens. Simon Allen và cha của Simon gặp rắc rối với người vợ trước. Bà ta
là gốc dân Cherokee. Bà khoan thai rỉ rả chẳng khác gì… con ngựa con đen.
Simon con, cậu ta lấy con gái nhà Rudolph, phải
chăng? Đó là điều ta nghĩ. Họ về sống ở quận Enid và làm ăn tốt—thật sự tốt. Chỉ
có gia đình Allen là thành công chưa ai từng có, gia đình này từng có nhà chứa
xe.
Trẻ em đi kiếm củi và
xách nước, chúng e ngại bước rón rén và cẩn thận len qua mấy mái lều. Chúng gắng
làm quen với cử chỉ chào nhau khá phức tạp. Có cậu bé dừng lại cạnh một cậu bé khác chăm chú nhìn một viên đá xong lượm
lên săm soi kỹ lưỡng. Cậu ta nhổ nước bọt vào viên đá chùi thật sạch nhìn thật
kỹ lần nữa xong đưa qua đứa bạn để xem.
-Mầy
được gì thế?
-Chẳng
gì cả tình cờ được viên đá này thôi.
-Ô,
thế sao mầy nhìn kỹ như có gì trong đó vậy?
-Tao
nghĩ có vàng trong viên đá này.
-Sao
mầy biết? Vàng chẳng là vàng, chỉ một màu đen trong viên đá thôi.
-Chắc
vậy, ai cũng biết thế.
-Tao
dám cá ai nói vàng là đồ ngu, mầy cũng nghi nó có vàng hả?
-Không
phải vậy đâu. Ba tao tìm ra chán khối
vàng, ông bảo tao cách nhìn viên đá như thế nào đó mà.
-Mầy
làm sao nhặt cho ra một viên vàng thật lớn xem nào?
-Nói
sao? Tao làm sao nhặt cho ra cục vàng “chó đẻ” lớn như thế được? ngay nhỏ như
viên kẹo chắc mầy cũng chưa bao giờ gặp đâu.
-Tao
chẳng muốn thề thốt, nhưng dù sao tao thề chưa bao giờ có được vậy cả.
-Tao
cũng thế, thôi tới suối kiếm nước đi!
***
Mấy thiếu nữ lại tìm
nhau, bẻn lẻn khoe về lời bàn tán về sắc đẹp của mình. Mấy nàng còn thổ lộ với
nhau ước muốn thầm kín cho ngày mai. Đàn bà phải lo nấu nướng, bận rộn trên bếp
lửa. Họ phải hối hả nấu cho xong món ăn nào đó phục vụ cho mấy cái bụng của gia
đình mình— Món thịt heo dành cho nhà nào có khá tiền, đã là thịt heo thì phải
đi kèm với khoai tây và hành. Món bánh bít quy làm từ lò nướng Hòa Lan, bánh bột
bắp, dùng kèm với nhiều nước sốt rải trên mặt. Thị sườn, thịt băm dùng xong còn
có một lon nước trà đen đậm, chát. Nhà nào đồng tiền hạn hẹp, họ có bánh bột
chiên, bánh bột chiên dòn cùng một chút nước gì đó màu nâu chan lên trên là
xong.
Những gia đình giàu có,
có thể họ đã dại dột dùng tiền lúc này để ăn mấy thứ sang các thứ đậu, đào đóng
hộp, mỳ hay bánh ngọt đóng gói; nhưng họ biết họ phải ăn một cách kín đáo trong
lều họ thôi, vì ăn công khai những thức ngon như thế thật không hay chút nào. Bởi
do sao? Ngay cả lũ trẻ con khi miệng nó ăn bánh nướng nhưng mũi chúng ngửi được
món đậu hầm đâu đó bốc lên chúng sẽ buồn tủi vô cùng.
Buổi ăn tối ăn xong,
chén dĩa rửa rồi thì bóng tối vừa bao trùm tất cả. Lúc này nhóm đàn ông lại ngồi
chồm hổm bên ngoài trò chuyện. Họ nhắc lại chuyện đất đai bỏ lại đằng sau.
-Ta
chẳng biết những gì sắp đến?
Đó là điều họ thường
nói đến. Đất nước này bị chiếm đoạt hết rồi.
Đất nước đó sẽ có lại
dù chúng ta không còn trở về chốn cũ.
Họ nói, có thể chúng ta
đã phạm tội nào đó mà chúng ta chẳng hề biết.
Bạn bè nói với ta, người
bạn của những người cầm đầu lúc này nói rằng họ chẳng làm gì bạn cả do đây là
thứ chính phủ thân tình. Gã còn nói, nếu bạn vượt qua ranh giới nào đó lúc này
họ chẳng nuốt chửng ai cả. Chẳng cần thử thách thứ chính phủ này làm gì. Bữa tối
vừa rồi cũng chẳng vượt qua ranh giới nào. Dù có đào bới không ngơi một cái
rãnh thật sâu và chạy lanh quanh tất cả đều có đấng Jesus Christ chứng minh
trong lòng.
Họ
nói nhẹ nhàng về nhà cửa: căn nhà thân thương dưới chân cái cối xay gió. Cám ơn
từ nơi này đã cho họ sữa để làm kem còn cả dưa hấu ngọt ngào. Nửa trưa nóng bức
bạn mong một nơi nghỉ ngơi mát mẻ, thì hảy vào đó. Cắt ra một trái dưa hấu, nước
chảy ròng ròng cùng mát mẻ làm sao.
Họ
còn kể cho nhau về nhiều chuyện buồn đời họ: Có người em Charle, tóc vàng quăn
như râu bắp, nó đã trưởng thành, chơi đàn acordion rất hay. Có một ngày bi thảm
đến với nó, khi đi san luống cày. Ôi, có tiếng vo vo của rắn rung chuông, đàn
ngựa bỏ chạy rồi cái bừa đã cày lên Charley. Lạy Chúa Toàn năng, những mũi nhọn cày lên bụng ruột, và kéo
phăng khuôn mặt cậu ta nữa!
Họ
bàn về tương lai: băn khoăn lo lắng hình ảnh nơi đến ra sao?
Ồ, công việc hái trái cây quá tốt.
Ta thấy nó đang cần và khấm khá lắm, vườn hồ đào và dâu san sát gần nhau, lại
có chóp núi tuyết phủ trắng xóa xa xa. Hình ảnh trông đẹp làm sao.
Nếu
chúng ta có ngay công việc ở đó thì quả là tốt đẹp. Mùa Đông không còn lo lạnh,
con nít đi học không còn bị cóng người. Đám trẻ nào không đi tới trường được,
ta có thể dạy do ta biết chữ nhưng bạn làm thế thì chẳng hay chút nào.
Trước
lều có một gã đem ra cây đàn ghi-ta. Gã ngồi trên cái thùng rồi dạo đàn, mọi
người từ các lều nghe đàn từ từ lần tới gần gã. Phần nhiều đàn ông đều biết
chơi ghi-ta, nhưng người này xem chừng là dân gảy đàn điệu nghệ hơn. Thế đó, bạn
có thể gã dạo những hợp âm sâu sắc, có lúc từng giai điệu y những bước chân nhỏ
bé lướt trên từng sợi dây đàn. Cũng có lúc mấy ngón tay thô cứng kia lại biết
diễu hành trên mọi phím đàn. Tiếng đàn càng hấp dẫn mọi người tiến gần với gã
cho đến khi cái vòng người kia chật cứng, rồi gã hát:
-Mười xu bông và bốn mươi xu thịt …
Rồi
cái vòng người kia nho nhỏ hát theo gã.
-Hỡi các em gái, sao các nàng nỡ cắt tóc đi?
Rồi
cả vòng người kia tiếp tục hát theo. Tiếng gã như than như khóc, “Ta
đang rời xa Miền Texas Xa Xưa” bài hát nổi tiếng đó ngày xưa hát bằng
tiếng thổ dân Da Đỏ, từng hát trước khi người Tây Ban Nha đến đó.
Giờ
đây mọi người kết hợp với nhau thành một thứ, một đơn vị, rồi trong bóng tối
các đôi mắt đều trầm mặc, hướng nội. Tâm trí họ để dành chuyện vui chơi vào dịp
khác cốt làm sao để các nỗi buồn cùng được ngơi nghỉ, ngủ yên. Gã đàn ghi-ta lại
hát bài “Nhà Tù Màu Xanh -McAlester Blues” và một bài khác dành cho người
già, bài “Jesus Gọi Con Về Phía Người”.
Trẻ
con thiu thỉu ngủ gật theo tiếng nhạc, chúng bèn mò vào trong lều. Ngoài kia tiếng
hát đang đưa đám người dần dà vào giấc mơ êm đềm. Chợt gã buông đàn đứng dậy,
ngáp dài.
-Thôi Chào các bạn, chúc ngủ ngon nhé!
Mọi
người thì thầm:
-Chúc ông bạn ngủ ngon!
Ai
cũng mong gã lo cầm cây đàn cất đi, cây đàn trong lúc này chẳng khác gì của quý.
Mọi người tìm giấc ngủ, khu lều chìm trong yên lặng. Có tiếng cú kêu đêm, xa xa
tiếng sói hoang tru lên từng hồi, vài con chồn hôi đang mò tìm thức ăn rơi rớt
trong bóng tối—thứ chồn hôi đuôi bông, chúng đã tinh lại còn tự phụ chẳng sợ thứ
gì trong đêm đen cả.
Đêm
dài qua đi, ánh bình minh từ từ hé dạng, đàn bà lo bước ra lều, nhóm lửa, lo
đun cà phê. Đám đàn ông tiếp tục lòn ra
sau, thầm thì nói chuyện với nhau khi trong ánh sáng ban mai ló dần:
-Khi
các bạn vượt Sông Colorado, người ta nói
chúng ta đang đi vào sa mạc. Rất mong chúng ta gặp nhau, không ai bị mắc kẹt tại
đó. Các bạn nhớ mang nhiều nước phòng lỡ khi kẹt giữa sa mạc nhé.
-Ta
chắc phải lái xe xuyên đêm.
-Ta
cũng thế: nó là cuộc sống của chúng ta mong Jesus giúp bạn.
Mọi
nhà ăn nhanh, rửa sạch dĩa chén. Lều trại đều dẹp xuống. Họ hối hả lên đường.
Cho đến khi mặt trời vừa ló dạng, bãi đất dựng trại nay chỉ còn bãi trống
không, chỉ còn một ít rác rưởi do đám người bỏ lại.
Dọc
theo xa lộ, đoàn xe di dân lục đục bò theo con đường bê tông chật hẹp giống một
đám bọ tiến về hướng trước.
John Steinbeck
HẾT CHƯƠNG 17
No comments:
Post a Comment